Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 11
Khí thứ hai
dật dờ bên hữu
Ngôi thiên tư
thành tựu thứ ba
Trời kia bên
tả tư ra
Đất thì bên
hữu rõ là khí năm
Tư tuyền
chung lăm lăm khí sáu
Hơi bốn mùa
nương náu đến nay
Thung thăng
khoảng sáu mươi ngày
Tám mươi bảy
khắc nữa rày hữu cơ
Ngọn lúa
đòng phất phơ thấp thoáng
Yếu quyết
xưa ló dạng đầu bờ
Niềm vui thao
thức bao giờ
Hai ngôi thoái
lại đợi chờ mỗi niên
Cứ xuôi
ngược đầu tiên chẳng trách
Tý thiên tư
bức bách về đâu
Hai heo ba
chuột bốn trâu
Năm hùm sáu
thỏ trọn xâu dẫn truyền
Mão tư thiên
xoán liền ngôi sửu
Dấy khí sơ
hùm thỏ đến rồng
Rằng hai ba
bốn đã thông
Năm trăn sáu
ngựa trọn công tư truyền
Hai năm ấy
lệ biên lâu nữa
Này những
năm thấp thổ tư thiên
Thấy ngay hàn
thủy đến phiên
Như năm tướng
hỏa mộc nhiên tạo thành
Bởi chính
hóa giao tranh đối lại
Chẳng đồng
nhau trở ngại gốc trồng
Ngựa dê gà
cọp heo rồng
Chuột trâu
khỉ thỏ rắn muông đua giành
Theo gốc số
bẩm sanh tạo hóa
Đối nghịch
nhau thời họa thực hư
Thiếu thừa
theo luật bù trừ
Chỗ tiêu nơi
bản đều từ ấy ra
Thì hãy dở
sách tra sẽ thấy
Càng thấm
nhuần lời dạy thực hay
Cổ kim năm
khí vận may
Máy trời sáu
khi xưa nay tỏ tường
E khách chủ
hai đường lẫn lộn
Khó toan bề
bận rộn ngó coi
Đạo Dẫn
tạo vật sáng soi
Khí theo khí
xét rạch ròi sử biên
Như giáp tý
chi niên giả dụ
Vận khí chia
quyền đủ một năm
Giáp tìm thổ
vận duyên cầm
Tý đưa quân
hỏa âm thầm khí đi
Khách gia cũng
chỉ vì trên chủ
Chủ chịu
lòn khí tụ ngưng tà
Đất trời
chẳng chịu dung hòa
Trái ngang hơn
thiệt mới ra bất tề
Mùa xuân ấm
chẳng về xoa dịu
Gió heo may
bấu víu lạnh lùng
Mùa hè hơi
nóng tận cùng
Khí âm ẩn
núp hãy hùng khí dương
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
19.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 12
Mùa thu đến
khí dương chẳng trọn
Mưa dầm dề
đội nón trên đường
Hơi sương
lạnh lẽo chán chường
Tiết đông
heo hút thê lương bức rèm
Làn gió thổi
lem nhem tan giá
Keo dán hình
đất đá sượng câm
Ráo khô bực
bội nóng hầm
Bùn lầy nhão
nhoẹt cát lầm nứt đê
Câu khí hậu
bất tề nên nhớ
Bờ sông quê
sụt lở theo nhau
Cỏ cây tàn
tạ khổ đau
Mong sao tương
đắc trước sau hóa lành
Chỉ e ngại
tranh giành khách khí
Không thuận
hòa vị trí soán ngôi
Ngũ hành điên
đảo than ôi!
Ghế cha phế
truất con ngồi lên trên
Sinh bệnh tật
cố nhiên nóng giận
Tiều cho rằng
khí vận thế này
Mấy năm
thuận nghịch thưa thày
Dẫn đưa y
học xưa nay tận tường
Khắc tư
thiên lẽ thường năm vận
Bởi tư thiên
sinh vận thuận tâm
Năm nào biến
chứng nghịch tầm
Vận đồng
với khí là năm thiên phù
Sáu mươi
giáp một chu kỳ đến
Mười hai năm
xuất hiện một lần
Kể ra Mậu
tý, Mậu dần
Mậu thân,
Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi
Năm Kỷ sửu,
Kỷ vi tính tới
Mão Dậu hai
Ất Hợi Tý Đinh
Cho hay vận
khí đồng tình
Mười hai năm
ấy chúng sinh thiên phù
Vận khí đến
vân du mấy lối
Thấp thỏm
coi tuế hội tám chi
Đếm đầu
Kỷ sửu, Kỷ vì
Giáp thìn,
Giáp tuất, thổ vi thổ làm
Đinh mão mộc
nhăm nhăm Ất dậu
Kim tiếp theo
Mậu ngọ lửa dầu
Coi chừng
Bính tý mưa ngâu
Thiên phù tuế
hội hợp nhau nhất thì
Thái ất kia
bốn chi hội đủ
Từ Kỷ sửu
chiêu dụ Kỷ vi
Theo nhau Ất
dậu hơi đi
Một bờ Mậu
ngọ thầm thì gió may
Coi năm tháng
giờ ngày tính toán
Cờ tư thiên
mà đoán cơ duyên
Gỉa như Mậu
ngọ thường niên
Vận đồng
với khí từng thiên rõ rành
Gặp năm ấy
khó lành bệnh tật
Sách nội
Kinh coi thật bao la
Máy trời
trắc trở sơn hà
Mười hai năm
lại sinh ra bất hòa.
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 13
Sự trái
ngược nhạt nhòa hơi khí
Mười hai năm
định vị thiên hình
Nguy nan tạo
vật điêu linh
Đất trời
giành giật chúng sinh thảm sầu
Khi tiểu
nghịch biết đâu sinh vận
Thuận hóa
thành phấn chấn vui thay
Nhiệm màu
nào có ai hay
Can chi nhộn
nhịp cho ngay đức phù
Có hai ngôi
vân du tuế hội
Vận suy ty rẽ
lối xét bàn
Nội kinh hai
chữ khuyên can
Hại cang thừa
chế cản ngăn rõ ràng
Hữu dư bất
túc càng cố gắng
Xuất nhập
cho thăng giáng hẳn hoi
Phân minh mọi
sự rạch ròi
Mỗi năm đồ
vẽ cần coi tận tường
Soi xét kỹ
bất thường tà chính
Bậc lương y
suy tính trước sau
Hai luồng khí
vẫn đua nhau
Thành tâm hóa
dục khổ đau tiêu dần
Bầy dân đen
xa gần trông ngóng
Y đức cao
trọng vọng tiếng thày
Kê đơn bắt
mạch chuyên tay
Bệnh tình
thuyên giảm thuốc hay mau lành
Lương y giỏi
xứng danh từ mẫu
Từ cổ kim
khắc dấu ghi tên
Hoa Đà Biển
Thước hoàng thiên
Lãn ông Hải
Thượng thần tiên giúp đời
Chỉ e rằng
các ngươi lười biếng
Đạo chẳng
chuyên để tiếng cho ta
Thị phi miệng
lưỡi phun ra
Học hành trí
trá gần xa tin đồn
Ngư Tiều xin
Sư tôn chỉ bảo
Kinh nghĩa
trong y đạo kín xa
Nghe câu cang
hại chưa ra
Dẫn trong
kinh sách bao la vô cùng
Rừng chữ
nghĩa mịt mùng vô tận
Muốn tinh
thông phải dấn thân đi
Đan Kỳ cửa
đạo tinh vi
Uyên thâm y
thuật nhất nhì chẳng ngoa
Rừng bản
thảo cỏ hoa kỳ lạ
Suối nước
trong sỏi đá bất thường
Đủ mười
hai bộ đan phương
Biết bao mùi
vị mở đường từ bi
Thảo mộc
cũng tương tri lân lý
Rất nhiều
loài chọn kỹ tìm lâu
Một bộ kim
thạch ở đầu
Trăm ba mươi
tám đúng câu đá vàng
Bộ thảo
thượng rõ ràng quý hiếm
Chín mươi
lăm tìm kiếm hột hoa
Thảo trung
một bộ nối ra
Chín mươi
bảy giống gốc chà lá cây.
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
21.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 14
Nhân thuốc
ấy bấy chầy một bộ
Có hai mươi
vị đủ chi dùng
Ở trong thú
vật bổ sung
Chín mươi
mốt giống mật cùng da xương
Phải kể đến
gan lòng tim phổi
Nào ba mươi
bốn cội cánh lông
Bộ trùng ngư
thuốc bềnh bồng
Chín mươi
chín loại non sông tuyệt vời
Thuốc thường
kiếm là nơi cầm điểu
Mễ cốc kia
công hiệu cứu đời
Ba mươi tám
giống là nơi
Gieo trồng
quả phẩm muôn người trọng coi
Bốn mươi
giống thảnh thơi bách thảo
Sáu mươi hai
hương hảo khỏi lo
Cộng mười
hai bộ trời cho
Một ngàn bốn
vị trong lò hóa công
Xưa có họ
Thần Nông cao nhất
Đã thay trời
trị vật yêu dân
Trải qua độc
vị thế gian
Một ngày hơn
bảy mươi lần trúng thương
Biết bao vật
âm dương nếm thử
Chẳng đắn
đo do dự cứu người
Dò tìm cây
cỏ khắp nơi
Soạn ra sáu
tính khác hơi năm mùi
Đã thành
hình nằm vùi dưới đất
Đủ đắng
cay ngọt lạt mặn chua
Sát sao cách
thức theo mùa
Xăm soi ngũ
vị kết tua luận bàn
Nhóm vị cay
dễ tan trong nước
Chua hay thâu
mặn được nhuễn liền
Đắng thường
vội vã nóng lên
Ngọt càng
chậm lại nhạt nên tận tường
Cay ngọt lạt
thuộc dương phải biết
Mặn đắng
chua nhất thiết là âm
Có khi dương
ở trong âm
Âm trong dương
đó dễ nhầm lắm thay
Máy mầu
nhiệm cầm tay dày mỏng
Hơi đục
trong thất vọng chẳng đồng
Giữ cho sáu
tính tương thông
Gọi là thăng
giáng ôn lương đến cùng
Đừng lạc
lối mê cung tả thực
Bổ hay hư
tỉnh thức trên giường
Cho hay tính
thuốc nhiều đường
Xưa nay năm
vị vẫn thường chia ra
Ngăn tà dâm
xâu xa sáu cửa
Sáu đạo
binh ngang ngửa ầm ầm
Có mùi cay
mát giữ cầm
Mỏi mòn hơi
gió âm thầm nửa phong
Mùi mặn lạnh
đề phòng cửa nhiệt
Lửa hừng
lên phải biết hậu môn
Đất nơi cửa
thấp ướt dồn
Ngửi mùi cay
nóng bồn chồn giác quan.
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
22.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 15
Nếu cảm
thấy khô khan cửa táo
Đường hàn
môn lạo xạo băng sương
Ưá trào vị
đắng táo hương
Thoảng bay
độc khí thất thường ngoại khoa
Mùi thuốc
ghẻ mấy toa chăng chớ
Năm vị này
úy ố trái nhau
Có mười tám
vị trước sau
Còn mười
chín vị sắc màu nhuộm pha
Sách sử ghi
lời ca ố úy
Mười tám
bài hệ lụy phản nhau
Nào là bán
hạ qua lâu
Ai hay bối
mẫu chân cầu tử sinh
Này bạch cập
rập rình bạch liễm
Cả hai đều
xâm chiếm ô đầu
Nguyên hoa hải
tảo từ đâu
Ngán sao đại
kích từng xâu đọa đày
Vị cam thảo
càng day dứt thuốc
Các lọai sâm
bạch thược trái ngang
Lê lô quả
thật phũ phàng
Lương tâm
thày thuốc bẽ bàng ngàn thu
Hồn ma khóc
âm u gió thổi
Lư hoàng kia
nóng hổi lửa phun
Phác tiêu cửa
ải mây đùn
Thủy ngân
chớ để hạp hùn tỳ sương
Mật đà tăng
bất lương lang độc
Ba đậu kia
thảm khốc xiết bao
Khiên ngưu
chăng hợp kết giao
Đinh hương
chớ để lẫn vào uất kim
Kinh tam lang
nổi chìm khó hợp
Với nha tiêu
từng hớp thuốc thang
Nực cười
tê giác lăng xăng
Xuyên ô trộn
lẫn nhì nhằng thảo ô
Ngũ linh chi
từng tô đáng sợ
Với nhân sâm
họa đó ích gì
Điều hòa
quan quế nhâm nhi
Rất hay khí
lạnh thầm thì yến anh
Gặp thạch
chi hóa thành công cốc
Phải dày
công bốc thuốc chuyên tay
Học hành
chăm chỉ tháng ngày
Tinh thông
thuận nghịch càng hay mọi đàng
Ngư cho rằng
từng thang thuốc quý
Phải đúng
liều chẳng lụy đến thày
Vài toa bệnh
đã dừng ngay
Dẫn cười
đạo hạnh xưa nay tỏ tường
Câu đối
chứng lập phương cần nhớ
Quân thần
kia tá sứ đo lường
Vua tôi hòa
hợp một đường
Đừng gây
tạo phản bất lương hại người
Nay ta mở các
ngươi mấy cửa
Sẵn bảy
phương đại tiểu ngẫu cơ
Phức cùng
hoãn cấp sờ sờ
Khá trông
mười tễ càng dư tuần hoàn
Tễ là bổ
chu toàn thành thạo
Hoạt trọng
khinh sáp táo thấp thôi
Bảy phương
mười tễ biết rồi
Tán thang minh
bạch trau dồi kỷ cương.
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
23.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 16
Phải thấu
hiểu tận tường gốc rễ
Các mẫu hình
vị tễ từ đâu
Cân đo bào
chế sắc mầu
Chớ nên nhầm
lẫn dao cầu khéo tay
Dùng muối
mặn gừng cay mật ngọt
Đủ dấm
chua rượu rót chế liền
Nấu hầm
than nướng lửa chiên
Ngấm vào
kinh lạc đáng tiền chi ra
Mật ong thấm
ruột rà phế vị
Muối thì vào
thận trị dấm can
Nước gừng
ngấm tới tỳ quan
Rượu hoà
nước tiểu ngập tràn tâm kinh
Muốn công
hiệu phân minh ngũ vị
Thuốc đã
dùng thần trí phải tinh
Đun sôi nấu
chín do mình
Giữ gìn thể
trạng bệnh tình chóng quên
Ăn uống sạch
cũng nên nhất thiết
Chất mặn
nhiều khí huyết sẽ tăng
Cay thì hơi
xịt lăng xăng
Hại xương
chát đắng mọi đằng kiêng khem
Kìa dưa chua
thòm thèm lưỡi miệng
Ngọt coi
chừng từng miếng thịt thăn
Mọi điều
cặn kẽ khuyên răn
Cổ kim rành
rẽ can ngăn đã nhiều
Lắm của
ngọt bấy nhiêu bệnh tật
Thuốc uống
vào thành thật ăn dè
Kiểm tra
nhiều món khắt khe
Tham ăn tục
uống chỉ e hại mình
Nếu trong
thuốc truật linh giả dụ
Tỏi dấm mùi
dễ sợ không ưa
Uống trà
phải tránh quả dưa
Hoàng liên
phảng phất quyết chừa bò heo
Cát cánh ấy
chẳng theo hành sống
Địa hoàng
xa mấy vống cải kia
Thịt trâu,
Ngưu tất chia lìa
Xương hầm
măng củ bên rìa chó dê
Thói quen hay
bộn bề khắc thuốc
thịt cá dầu
mỡ buộc bỏ ngay
Trái cây rau
sống ai hay
Kiêng khem thì
khá tháng ngày bền lâu
Ta xin nói một
câu huân tập
Bệnh tất
tòng khẩu nhập giữ mình
Bốc từng
thang thuốc cho tinh
Thuận theo
thủy hỏa sinh linh tận tường
Đẩy dương
số tiên phương mới thật
Tâm pháp
thành thực chất xưa nay
Cao minh y
thuật chuyên tay
Tiện bề vấn
đáp sách hay để đời
Thày đã dạy
bao lời ưu ái
Bậc cao nhân
chẳng trái lương tâm
Mong trò y
thuật tới tầm
Cứu nhân độ
thế tình thâm giống nòi.
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
24.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 17
Nay tổng quát
rạch ròi đơn thuốc
Các trò nên
học thuộc ghi lòng
Baỷ phương
mười tễ cân đong
Thành thang
hoàn tán bột trong đan ngoài
Phòng thuốc
giả đúng sai tỉ mỉ
Bào chế quen
mùi vị phân minh
Chớ nên khéo
léo cậy mình
Chín thăng
sống giáng thuận tình kiêng khem
Ngân hoa dễ
nhá nhem lợi thủy
Dấm lại
càng liên lụy khó thông
Đậu xanh
nguyên vỏ không công
Khó bề giải
độc ói nồng xình hơi
Thảo quả
chữa cho người đầy bụng
Để vỏ
thành rẻ rúng ngực đau
Viễn chi hắc
sửu gặp nhau
Độc càng
phát tác trước sau tỏ tường
Bồ hoàng
sống để thông khí huyết
Nấu chín ăn
thì tuyệt vô cùng
Địa du cầm
huyết diệt trùng
Trần bì chữa
khí màng cung trắng cường
Chống phong
ngứa cứu dương phụ tử
Chữa phong tê
phải có thảo ô
Ngất ngư mầm
bệnh cờ hồ
Mỗi khi dùng
sống dật dờ hồn mây
Nhân ngôn đốt
như thày chỉ dẫn
Đá phải
nung mới tán dấm ngâm
Xuyên khung
loại bỏ âm thầm
Chất dầu
nguy hiểm khí âm bềnh bồng
Tiều xuân hạ
thu đông tác quái
Cả bốn mùa
thuốc sái thất thường
Trời già đảo
lộn âm dương
Xuân hòa hạ
nóng thu hương đông tàn
Dẫn căn dặn
dân gian trị bịnh
Tùy theo mùa
suy tính đắn đo
Mùa nào thuốc
ấy thăm dò
Tinh thông y
thuật khéo lo chu toàn
Vào tiết
xuân nồng nàn không khí
Thuốc quen
dùng thấm vị thanh lương
Mùa hè nóng
nực tăng dương
Từng thang hạ
nhiệt thông thường hàn sa
Đến mùa thu
gần xa man mát
Gió heo may
dào dạt tình ca
Dập dìu sóng
vỗ giang hà
Trai thanh gái
lịch mặn mà yêu nhau
Hội hoa bướm
khoe màu ân ái
Sợ thời
gian quan tái sơn hà
Thu đông vội
vã mọi nhà
Đất trời
hy vọng thái hòa an khang
Bệnh thời
khí dễ dàng bột phát
Cảm cúm hay
sát phạt đủ đường
Đến coi bắt
mạch tận giường
Thuận theo
bệnh lý đúng phương thuốc dùng
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
26.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 18
Lắm trường
phái tựu trung học tập
Dám so bì cao
thấp Đan Kỳ
Lưu truyền
đạo hạnh lương y
Non xanh nước
biếc lâm ly nẻo nào
Danh tiếng
thơm xôn xao bốn bể
Đã bao đời
kính nể hóa công
Ngày xưa có
họ Thần Nông
Viêm Hoàng
nếm trải núi sông tôn thờ
Khắp muôn
nơi trông chờ dược thảo
Kỳ Bá quen
giao hảo cứu đời
Nội kinh nổi
tiếng một thời
Đất trời
cảm tạ bao lời ngợi khen
Pho Tố Vấn
tương truyền y đạo
Bệnh tật
ghi chu đáo đến nay
Hai mươi bốn
quyển sách dày
Phân ra tám
chục thiên bày rạng danh
Từ đại
luận thực hành màu nhiệm
Chắng bao giờ
dấu diếm mạch kinh
Vẽ đường
chỉ dẫn tượng hình
Đủ năm vận
khí tận tình theo năm
Phép châm cứu
cần chăm trị liệu
Trong thời
thang dịch cứu mạng dân
Từ Hiên, Kỳ
thị bao lần
Trải qua thế
kỷ bậc thần y ra
Như Biển
Thước nhà ta phát triển
Có tám mươi
mốt quyển Nạn kinh
Có ông Hoàng
Phủ tài tình
Soạn kinh
giáp ất thanh minh trăng rằm
Trương Trọng
Cảnh chẳng ham quyền quý
Hãy coi pho
kim quỹ ngọc hàm
Nào ai còn
nổi máu tham
Trong ngoài hư
thực phép làm bao la
Từ Lưu Tử
nối ra vô tận
Tới Hà Gian
tinh tấn hai pho
Đông Viên họ
Lý trời cho
Mười pho bạt
tụy đo dò thâm sâu
Miền Đan Khê
thày Chu để lại
Sách thuốc
kia mấy đại pho kinh
Đều từ nội
lực trong mình
Diễn ra hóa
giải tướng tinh cứu người
Y thư kể các
nơi chẳng hết
Đàn trâu kêu
khẩn thiết cột nào?
Sách nhiều
vô kể xiết bao
Học trò tính
học bộ nào cho hay
Bào Tử Phược
mong thày chỉ giáo
Mộng Thế
Triền thế đạo xưa nay
Thánh hiền
trăm bộ chuyên tay
Dẫn cười
chú giải lỗi dày chuyên tâm
Xét nguồn
gốc mở tầm tra cứu
Sách bách gia
hai chữ ” Chiết trung”
Đạo đời
kinh nghiệm của chung
Lương y từ
mẫu tận cùng tâm can
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 19
Bản thảo
xem trước ngăn sơ xuất
Tố Vấn sau
coi thật bệnh tình
Phòng ngừa
bốc thuốc hành kinh
Tốn công bào
chế khéo tinh tường dùng
Ngoài thang
dược tận cùng Y Doãn
Trong lo toan
xét đoán nhiều phương
Theo ông Trọng
Cảnh tìm đường
Đông Viên
học phép nội thương tận tường
Này Hà Gian
một chương nhiệt học
Tạp bệnh
nhiều khó nhọc khuyên chàng
Đan Khê chớ
có vội vàng
Họ Vương
kinh mạch rộng đường thênh thang
Trương Tử
Hòa vấn vương nghề thuốc
Có lắm khoa
khéo bốc biếu thừa
Đầy tràn y
lý hay chưa
Nhiều phương
lắm lối từ xưa đến giờ
Đem so sánh
ai ngờ cũng lỗi
Sạch dòng
trong nguồn cội bao la
Ghi lòng tạc
dạ lời ta
Nêu ngay bóng
thẳng chiều tà dần phai
Ngư xin hỏi
thờ ai trong miếu?
Dẫn trả lời
đạo hiệu Phục Hy
Tổ xưa là
một rừng y
Cao nhân thiên
hạ thần kỳ theo sau
Truyền mười
đời Qủy Du Khu dẫn
Tới Linh Khu
Tổ Vấn sách biên
Nối theo vua
thánh tôi hiền
Mười ba đặng
kể họ tên nối dòng
Người thượng
cổ trọn lòng y lý
Bốn mốt ông
nho sĩ đại phu
Dày công đọc
sách chuyên tu
Trương, Tôn
bọn ấy ngao du một thời
Tần, Sào
cũng trọn đời danh giá
Hàng trăm năm
vàng đá sáng tươi
Minh y chín
chục tám người
Thế y hai
chục sáu cười tài hoa
Nhà nối nhà
sáng lòa đức hạnh
Lâu, Từ từng
hiển hách nghiệp cha
Trường Tăng
theo gót thiết tha
Có mười
chín họ nhân hà quang vinh
Bao thế kỷ
chúng sinh ngưỡng mộ
Hơn hai trăm
thi thố tài năng
Ngàn năm soi
sáng tuyết hằng
Tiếng thơm
để lại xênh xang mọi đàng
Trước Phục
Hy Tam Hoàng buổi đó
Tựu Thải
kia đã mở mang nhiều
Dạy ông Kỳ
Bá bao nhiêu
Huyệt do kinh
lạc lắm chiêu nhiệm màu
Phép châm cứu
đua nhau học tập
Thuốc chẳng
cần hòa nhập âm dương
Nội công vận
khí thông thường
Tĩnh tâm ép
độc trọn đường hiếu sinh
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ
Mộng Bào
cảm xúc thơ
Nguyễn Đình Chiểu bài 20
Đạo Dẫn
dặn trau mình ý thật
Phải coi
chừng trời đất muôn hình
Lòng thành
thần thánh tâm linh
Âm dương
kinh lạc cần tinh tế vào
Thập nhị
giáp hư hao cội phúc
Đủ ba trăm
sáu chục lẻ năm
Toàn thân
xương cốt ba trăm
Số dư sáu
chục lẻ năm khác gì?
Đường kinh
mạch suy vi năm tháng
Theo âm dương
soi sáng huyệt danh
Chân kinh
Hoàng Phủ thực hành
Cảnh Khôi
cứu pháp dần thành chuyên môn
Mình Đường
đồ bảo tồn bổ tả
Dò cho thông
thiên hạ mấy ai?
“Chi công
đoạt dược” chân tài
Phép châm cứu
ấy thái lai mở đường
Mộng Thế
Triền hòai hương suy nghĩ
Phép ngoại
khoa còn bí chưa ra
Ông nào danh
giá chuyên gia
Thâm sâu uyên
bác gần xa tôn thờ?
Dẫn bảo
rằng cậy nhờ Du Phủ
Thuở Hiên,
Kỳ dụng cụ khác thường
Xẻ đầu, mổ
bụng, cạo trường
Hoa Đà viết
sách nhiều phương lạ kỳ
Có nhiều bậc
thần y để lại
Sách ngoại
khoa đủ loại cao thâm
Đan Khê
truyền thụ ngang tầm
Bổ di mấy
tập chuyên tâm học hành
Đọc nội
kinh thêm rành y thuật
Khuyên các
ngươi bác vật muôn loài
Sờ sâu khám
kín trong ngoài
Tỏ lòng nhân
đạo ngắn dài cưu mang
Có bốn điều
sẵn sàng chỉ dẫn
Tâm pháp nhà
vọng vấn thiết văn
Vọng coi thần
sắc can ngăn
Đớn đau vấn
hỏi băn khoăn ra vào
Nghe giọng
nói thấp cao tách bạch
Thiết tận
tay bắt mạch thực hư
Không quên
lời dạy tôn sư
Trước sau
tuần tự nhẫn từ duyên căn
Tâm làm chủ
trở trăn luồng khí
Lực tàn suy
thần trí mơ màng
Khô gày béo
mập dở dang
Gầy hư yếu
ghé thăm biết bệnh
Dáng lom khom
tê liệt lưng đau
Nhức đầu
chóng mặt mày chau
Tay không nhấc
nổi vai đau như dần
Bước khó
nhọc ống chân buốt nhói
Ôm ngực ho
lá phổi bị lao
Đè tay trước
rốn cồn cào
Dạ dày gan
ruột phều phào rên la
Không dậy
được gật gà mất ngủ
Cổ ứ đờm
lụ khụ nóng ran
Ngủ hòai bởi
tại khí hàn
Co ro sát vách
lạnh tràn toàn thân.
*Nguyên tác
thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.3.2020 Lu Hà
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen